Thu thập, lưu giữ và đánh giá ban đầu nguồn gien chè thu thập giai đoạn 2000-2010
20/10/2014
KH&CN trong nước
KH&CN trong nước
Tác giả Nguyễn Văn Tạo (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) và các cộng sự tiến hành nghiên cứu với 37 mẫu giống chè được thu thập ở giai đoạn 2000-2010 từ các nguồn trong và người nước bằng hạt, hom và cây con giống. Việc thu thập, lưu giữ và đánh giá nguồn gien là cần thiết để làm phong phú nguồn vật liệu khởi đầu phục vụ công tác chọn tạo giống chè ở Việt Nam.
Trong 10 năm (2000-2010) đã thu thập và trồng bảo quản thêm được 37 giống chè mới, trong đó giống thu thập trong nước 7, từ nước ngoài 30. Các mẫu giống đa số được thu thập bằng cành, đưa tổng số tập đoàn giống chè đến hết 2010 lên 148 mẫu giống. Đặc điểm hình thái các giống mới thu thập có nguồn gốc từ Nhật Bản, Trung Quốc đều có dạng thân bụi, kích thước lá vừa và nhỏ so với các giống chè có nguồn gốc từ Việt Nam và Ấn Độ. Có 7 giống hình dạng lá bầu dục và thuôn dài, 6 giống lá non có nhiều lông tuyết là LD97, Dền sáng, Nậm ty, Hùng đỉnh bạch, Phúc vân tiên, PT95.
Phân biệt nhận dạng các giống mới thu thập giai đoạn 2000-2010 gồm 26 mẫu giống thuộc biến chủng chè Trung Quốc lá nhỏ, 4 mẫu chè Trung Quốc lá to, 4 mẫu giống chè Shan và 3 mẫu giống chè Assam. Vườn quỹ gien đã bảo quản được 148 giống, trong đó có 51 giống có nguồn gốc trong nước (chiếm 34,46%), các mẫu giống có nguồn gốc nhập nội lớn nhất là từ Trung Quốc 29 giống (19,60%), Nhật Bản 15 (10,14%). Các mẫu giống được phân loại theo các biến chủng: Trung Quốc lá nhỏ 53 giống, Trung Quốc lá to 32 giống, chè Ấn Độ 39 giống, chè Shan 24 giống.
Đánh giá ban đầu biến chủng chè Shan có diện tích lá và khối lượng búp 1 tôm 2 lá lớn nhất, đạt tương ứng 28,1 cm2 và 0,72 gam/búp; biến chủng chè Trung Quốc lá nhỏ có diện tích lá và khối lượng búp nhỏ nhất chỉ đạt 15,8 cm2 và 0,51 gam/búp.
LV (TC NN&PTNT, kỳ 1, 6/2014)