Theo các nghiên cứu trước đây, nếu các hoạt chất pyriofenone, fluazinam và thiophanate-methyl hoạt động riêng lẻ thì ít hoặc không đủ khả năng kiểm soát các loại bệnh thực vật. Tuy nhiên, với việc kết hợp 3 hoạt chất này, sẽ thu được các hiệu ứng diệt nấm tuyệt vời, giúp kiểm soát ổn định nhiều loại bệnh của thực vật.
|
|
|
pyriofenone
|
fluazinam
|
thiophanate-methyl
|
Cấu trúc của các hoạt chất pyriofenone, fluazinam và thiophanate-methyl
Chế phẩm có thể kiểm soát các loại bệnh trên nhiều loại thực vật như:
- Đối với cây lúa, lúa mì và lúa mạch: các loại bệnh đốm nâu do nấm Magnaporthe grisea, bệnh sán lá gan do nấm Rhizoctonia solani hoặc bệnh phấn trắng do Erysiohe araminis gây ra
- Đối với cây ngô: bệnh đốm lá do Phaeosphaeria spp., bệnh gỉ sắt do Puccinia spp., bệnh bạc lá phía bắc do Setosphaeria spp., bệnh bạc lá phía nam do nấm móng tay, bệnh thối rễ do nấm Pythium grarninicola gây ra
- Đối với cây mía đường: bệnh cháy lá do Stagonospora spp., bệnh gỉ sắt do Puccinia spp., bệnh thối đầu do Gibberella spp. gây ra, bệnh nấm mốc do Caldariomyces spp. gây ra
- Đối với cây họ đậu: bệnh phấn trắng do Oidium spp., bệnh gỉ sắt do Phakopsora spp., bệnh sương mai gây ra bởi Peronospora spp., bệnh mốc xám do Botrytis spp. gây ra
- Các bệnh tương tự trên một số loại cây khác như: cây họ hoa cúc, cà, bầu bí, hoa tán, hoa loa kèn, rau răm, khoai, hoa bìm bìm, nho, dâu tây,…
Bên cạnh đó, theo sáng chế, chế phẩm còn có tác dụng trong việc kiểm soát các loại bệnh do các loại nấm có trong đất trồng gây ra như: Fusarium spp., Pythium spp., Rhizoctonia spp., Verticillium spp., Plasmodiophora spp.,…
Khi sử dụng cho cây trồng, các hoạt chất của sáng chế này thường được pha trộn với các loại tá dược theo các công thức khác nhau để tạo thành nhiều dạng chế phẩm tùy theo yêu cầu như: dạng bụi, hạt, hạt phân tán trong nước, bột dễ thấm, chất cô đặc dạng nước, chất cô đặc gốc dầu, hạt hòa tan trong nước, chất cô đặc có thể nhũ hóa, chất cô đặc hòa tan, dạng sệt, dạng xịt,…Tỷ lệ pha trộn của các thành phần hoạt chất của sáng chế với các chất bổ trợ khác nhau (hoạt chất: tá dược) thường là từ 0,2: 99,8 đến 90:10 theo tỷ lệ trọng lượng trộn.
Chế phẩm sau khi pha trộn có thể sử dụng kết hợp với các hóa chất nông nghiệp khác như thuốc trừ sâu, chất diệt côn trùng, thuốc trừ sâu đất, chất chống virus, chất hấp dẫn, thuốc diệt cỏ và chất điều hòa sinh trưởng thực vật,…để tăng hiệu quả sử dụng. Nó cũng có thể được pha trộn hoặc sử dụng kết hợp với các hóa chất vi sinh như protein tinh thể diệt côn trùng, sản xuất từ Bacillus thuringiensis aizawai, Bacillus thuringiensis kurstaki, Bacillus thuringiensis và nấm tuyến trùng; kháng sinh hoặc kháng sinh bán tổng hợp, như avermectin, emamectin benzoate, milbemectin, milbemycin, spinosad, ivermectin, lepimectin, abamectin, emamectin và spinetoram và các tác nhân vật lý, như parafin, dầu khoáng.
Cách sử dụng đạt hiệu quả cao của chế phẩm diệt nấm là xử lý hạt giống trước khi gieo trồng, bằng cách nhúng, phủ bột, bôi, phủ màng và phủ hạt có thể giúp cải thiện tỷ lệ nảy mầm, ngăn ngừa nhiễm trùng bởi mầm bệnh từ đất, ngăn ngừa nhiễm trùng ban đầu sau khi nảy mầm và phòng ngừa bệnh ở giai đoạn đầu tăng trưởng. Nhờ đó, giảm thiểu mật độ mầm bệnh và ngăn ngừa bệnh tấn công trong cả thời kỳ sinh trưởng. Đối với công nghệ phủ màng, chế phẩm có chứa các thành phần hoạt chất của sáng chế được hòa tan hoặc phân tán trong dung dịch polyme tan trong nước và/hoặc polyme ưa nước được cố định ở dạng màng phủ lên bề mặt hạt giống. Sau đó, làm khô hạt giống trong không khí hoặc đưa vào lò sấy ở nhiệt độ thấp hơn 40°C để tăng cường độ bám dính của chế phẩm trên hạt giống.
Liều lượng sử dụng chế phẩm diệt nấm có thể thay đổi theo từng trường hợp áp dụng. Nếu sử dụng trên lá, tổng lượng hoạt chất trong chế phẩm của sáng chế thường từ 100-2.500 g/ha. Nếu xử lý hạt giống, tổng lượng hoạt chất trong chế phẩm của sáng chế thường từ 11-400 g/100 kg trọng lượng hạt. Khi sử dụng cho đất, tổng lượng hoạt chất trong sáng chế thường từ 100-1.000 g/ha.
Nồng độ hiệu quả của các thành phần hoạt chất có trong chế phẩm của sáng chế nói chung không thể xác định được do nó thay đổi tùy theo các điều kiện như: thực vật được xử lý, phương pháp ứng dụng, loại công thức, liều lượng và thời gian áp dụng. Trong trường hợp áp dụng trên lá hoặc xử lý đất, nồng độ pyriofenone, fluazinam và thiophanate-methyl hiệu quả thường từ 1-1.000 ppm Trong trường hợp xử lý hạt giống, nồng độ pyriofenone hiệu quả thường là từ 10-200 g/100 kg hạt, nồng độ fluazinam hiệu quả thường là từ 0,125-250 g/100 kg hạt giống và nồng độ thiophanate-methyl hiệu quả thường từ 1-400 g/100 kg hạt giống.
Tỷ lệ trọng lượng của 3 hoạt chất pyriofenone, fluazinam và thiophanate-methyl không bị giới hạn và có thể được điều chỉnh trong phạm vi tương đối rộng, tùy thuộc vào từng nhu cầu sử dụng cụ thể. Tỷ lệ trọng lượng của hai thành phần tùy chọn giữa pyriofenone, fluazinam và thiophanate-methyl (tỷ lệ trọng lượng của pyriofenone: fluazinam, fluazinam: thiophanate-methyl và pyriofenone: thiophanate-methyl) tốt nhất là từ 1:100 đến 100:1. Cụ thể, trong trường hợp sử dụng trên lá hoặc xử lý đất, tính theo trọng lượng của pyriofenone, lượng fluazinam thường từ 0,01-100 phần và lượng thiophanate-methyl thường từ 0,01-100 phần. Trong trường hợp xử lý hạt giống, tính theo trọng lượng của pyriofenone, lượng fluazinam thường từ 0,05-0,5 phần và lượng thiophanate-methyl thường từ 0,5-5 phần.